Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh
ThS. DS. Huỳnh Phương Thảo (lược dịch)
Triệu chứng
Tiêu chảy là một tác dụng phụ thường gặp khi điều trị bằng kháng sinh. Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh được định nghĩa là đi tiêu phân lỏng ít nhất 3 lần mỗi ngày (2). Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh xảy ra sớm ở khoảng 5-30% bệnh nhân trong quá trình điều trị bằng kháng sinh hoặc đến 2 tháng sau khi kết thúc điều trị (1).
Các biểu hiện lâm sàng của tiêu chảy liên quan đến kháng sinh bao gồm từ tiêu chảy nhẹ đến viêm đại tràng giả mạc tối cấp. Viêm đại tràng giả mạc với các triệu chứng đặc trưng như tiêu phân lỏng, đi tiêu thường xuyên hơn, sốt (gặp trong 80% trường hợp), tăng bạch cầu (80%) và sự hiện diện của giả mạc khi kiểm tra nội soi (1).
Các thuốc kháng sinh dễ gây tiêu chảy
Hầu như tất cả các loại kháng sinh, đặc biệt là những loại tác động lên vi khuẩn kỵ khí, đều có thể gây tiêu chảy, nhưng hay gặp nhất là các nhóm: penicillin kết hợp với beta-lactamase, cephalosporin thế hệ 2/3/4, carbapenem, fluoroquinolon và clindamycin (1), (3),(4),(5).
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến tiêu chảy do kháng sinh bao gồm: trên 65 tuổi, suy giảm miễn dịch, thời gian nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt hoặc nằm viện kéo dài (1).
Nhiễm trùng do Clostridioides difficile (tên cũ Clostridium difficile)
Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh là hậu quả của sự phá vỡ hệ vi sinh bình thường của ruột do kháng sinh. Hệ vi sinh vật này, bao gồm 1011 vi khuẩn trên mỗi gam chất trong ruột, tạo thành một hệ sinh thái ổn định cho phép loại bỏ các sinh vật ngoại sinh. Thuốc kháng sinh làm xáo trộn thành phần và chức năng của hệ sinh vật này và tạo điều kiện cho sự phát triển quá mức của các vi sinh vật gây tiêu chảy. Kể từ khi được phát hiện vào năm 1978, trực khuẩn kỵ khí gram dương Clostridium difficile (C. diff) đã nổi lên như tác nhân gây bệnh đường ruột chính, gây tiêu chảy do kháng sinh. Loại vi khuẩn hình thành bào tử kỵ khí này chiếm 10-25% các trường hợp tiêu chảy liên quan đến kháng sinh và hầu như tất cả các trường hợp viêm đại tràng giả mạc (1).
Bảng 1. Các kháng sinh có thể gây tiêu chảy và viêm đại tràng do C.diff (3), (4)
Các giai đoạn lâm sàng của nhiễm trùng do C. difficile (2)
Bệnh nhẹ đến trung bình: bạch cầu < 15.000, creatinin huyết thanh không tăng
Bệnh nặng: bạch cầu > 15.000, creatinin huyết thanh tăng > 50%, điểm Zar ≥ 2
Điều trị
Trong trường hợp tiêu chảy nhẹ đến trung bình, các biện pháp thông thường bao gồm bù nước hoặc ngừng tác nhân kích thích, tránh dùng các kháng sinh có nguy cơ cao như: clindamycin, cephalosporin, carbapenem, flouroquinolon… hoặc thay thế bằng kháng sinh có nguy cơ gây tiêu chảy thấp hơn, chẳng hạn như co-trimoxazole hoặc aminoglycoside. Trong 22% trường hợp tiêu chảy liên quan đến C. diff, việc ngừng tác nhân kích thích sẽ giúp giải quyết các triệu chứng lâm sàng trong ba ngày (1).
Trong trường hợp tiêu chảy nặng hoặc kéo dài liên quan đến kháng sinh, cần xác định nguyên nhân có liên quan đến C. diff không, vì đây là mầm bệnh phổ biến nhất có thể xác định và điều trị được. Chẩn đoán dựa vào việc phát hiện độc tố A hoặc B trong phân. Xét nghiệm nuôi cấy mô là tiêu chuẩn vàng, mặc dù tốn thời gian. Xét nghiệm miễn dịch enzym đối với độc tố A hoặc B có độ đặc hiệu tốt, nhưng tỷ lệ âm tính giả là 10-20% (1).
Nên tránh sử dụng các chất kháng nhu động ruột vì nguy cơ lưu giữ chất độc trong ruột. Khoảng 20% bệnh nhân bị tiêu chảy liên quan đến C difficile sẽ tái phát. Hầu hết bệnh nhân sẽ đáp ứng với một đợt điều trị của metronidazole hoặc vancomycin, nhưng 5% sẽ bị tái phát nhiều lần (1).
Biện pháp chính để ngăn ngừa tiêu chảy liên quan đến kháng sinh là hạn chế sử dụng kháng sinh. Probiotic (Lactobacillus, Bifidobacterium, Saccharomyces boulardii…) có tác dụng ngăn ngừa tiêu chảy (1).
Các thuốc điều trị (2):
- Bệnh nhẹ hoặc trung bình:
Fidaxomicin 200mg uống 2 lần/ngày x 10 ngày (đắt tiền, chưa có ở Việt Nam)
Vancomycin 125mg uống 1 lần/ngày x 10 ngày
- Bệnh nặng:
Vancomycin 500mg uống 4 lần/ngày x 10 ngày +/- Metronidazol 500mg IV x 3 lần/ngày (đặc biệt nếu có tắc ruột: Vancomycin 500mg pha trong 100ml nước muối sinh lý đường trực tràng x 4 lần/ngày)
* Các thuốc điều trị thay thế (khi hạn chế về khả năng cung ứng Fidaxomicin và Vancomycin uống):
- Bệnh nhẹ: Metronidazol 500mg x 3 lần/ngày
- Bệnh nặng: tránh dùng Metronidazol vì tử lệ tử vong cao hơn vancomycin.
Thông thường thời gian điều trị 10 ngày, có thể kéo dài đến 14 ngày nếu chưa đáp ứng tốt.
Rửa tay bằng xà phòng và nước có hiệu quả hơn trong việc loại bỏ các bào tử so với chất vệ sinh tay có cồn (2).
Tài liệu tham khảo
(1) https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1123310/
Barbut, F. and Meynard, J.L., 2002. Managing antibiotic associated diarrhoea: Probiotics may help in prevention. Bmj, 324(7350), pp.1345-1346.
(2) Clostridioides difficile, C. diff, Sanford Guide, updated Jan 17, 2023.
(3) Kelly, C.P. and Khanna, S., 2021. Antibiotic-associated diarrhea and clostridioides difficile infection. Sleisenger and Fordtran's Gastrointestinal and Liver Disease. 11th ed. Philadelphia, PA: Elsevier.
(4) Dược thư quốc gia Việt Nam 2018.
(5) https://www.cdc.gov/cdiff/clinicians/faq.html#settingsa
Sốt là triệu chứng phổ biến trong thực hành lâm sàng hàng ngày và một số lượng lớn người bệnh nhập viện do sốt. Nhiều người bệnh được dùng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm hoặc thuốc kháng ký sinh trùng, nếu coi nhiễm trùng là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, thuốc được dùng để điều trị có thể là nguyên nhân tiềm ẩn gây sốt trong bối cảnh như vậy
Năm 2024, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng doxycyclin dự phòng sau phơi nhiễm (doxy-PEP) để phòng ngừa bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI). Dự phòng sau phơi nhiễm là một chiến lược hoá trị dự phòng, trong đó thuốc được dùng sau khi có khả năng phơi nhiễm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Đây là một chiến lược phòng ngừa phổ biến và hiệu quả đối với HIV và các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như bệnh dại và uốn ván. Doxycyclin là một kháng sinh nhóm tetracyclin phổ rộng dung nạp tốt và được khuyến cáo điều trị bệnh chlamydia và là phương pháp thay thế trong điều trị giang mai ở những bệnh nhân không có thai.
Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ. Các yếu tố dược động học ở trẻ sơ sinh thay đổi liên tục do sự phát triển nhanh về sinh lý. Tiêm tĩnh mạch thường được sử dụng trong điều trị cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi trẻ đang điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực. Khi tiêm tĩnh mạch, hiệu quả gần như tức thời. Hầu hết các loại thuốc tiêm tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh có những yêu cầu riêng về độ pha loãng và/hoặc tốc độ truyền.
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau: