Tính an toàn của thuốc khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Nhiều bà mẹ được chỉ định thuốc trong thời gian cho con bú. Hầu hết các thuốc đều qua sữa và có thể gây nguy cơ trên trẻ sơ sinh. Những yếu tố như lượng thuốc qua sữa mẹ, dược động học của thuốc và ảnh hưởng của thuốc trên trẻ sơ sinh nên được cân nhắc khi chỉ định thuốc trong thời kỳ cho con bú. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thuốc an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú.
1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận chuyển thuốc qua sữa mẹ:
Gần như hầu hết thuốc đều qua sữa mẹ ở một giới hạn nhất định. Ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ đáng chú ý như heparin và insulin có phân tử lớn nên không qua màng sinh học được. Thuốc vận chuyển từ máu của người mẹ vào sữa với một số lượng hạn chế bằng cách khuếch tán thụ động qua màng sinh học. Việc vận chuyển nhiều nhất khi thuốc có nồng độ gắn kết protein thấp và tính tan trong lipid cao. Sữa mẹ có tính acid cao hơn huyết tương (pH của sữa mẹ khoảng 7.2 và của huyết tương là 7.4) chỉ cho phép những thuốc có tính base yếu vận chuyển qua và sau đó chuyển thành dạng ion hóa. Thành phần trong sữa luôn biến đổi và giữa những đường ống dẫn sữa những thành phần này có thể ảnh hưởng đến sự vận chuyển của thuốc vào sữa mẹ. Thành phần sữa ở cuối đường ống dẫn sữa chứa nhiều chất béo hơn ở đầu đường ống do vậy thường tập trung những thuốc tan trong dầu.
Sự vận chuyển thuốc qua sữa mẹ thường được mô tả bằng tỷ lệ nồng độ thuốc trong sữa trên nồng độ thuốc trong huyết tương, ký hiệu là M/P. Tính chính xác của giá trị này tăng lên dựa vào trị số diện tích dưới đường cong của lượng thuốc trong sữa mẹ và lượng thuốc trong huyết tương, ký hiệu là M/PAUC.
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Phòng ngừa suy nhược, mệt mỏi, đau nhức:
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Chườm khăn lạnh nếu có nhức mỏi, đau cơ.