Tính an toàn của thuốc khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Nhiều bà mẹ được chỉ định thuốc trong thời gian cho con bú. Hầu hết các thuốc đều qua sữa và có thể gây nguy cơ trên trẻ sơ sinh. Những yếu tố như lượng thuốc qua sữa mẹ, dược động học của thuốc và ảnh hưởng của thuốc trên trẻ sơ sinh nên được cân nhắc khi chỉ định thuốc trong thời kỳ cho con bú. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thuốc an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú.
1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận chuyển thuốc qua sữa mẹ:
Gần như hầu hết thuốc đều qua sữa mẹ ở một giới hạn nhất định. Ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ đáng chú ý như heparin và insulin có phân tử lớn nên không qua màng sinh học được. Thuốc vận chuyển từ máu của người mẹ vào sữa với một số lượng hạn chế bằng cách khuếch tán thụ động qua màng sinh học. Việc vận chuyển nhiều nhất khi thuốc có nồng độ gắn kết protein thấp và tính tan trong lipid cao. Sữa mẹ có tính acid cao hơn huyết tương (pH của sữa mẹ khoảng 7.2 và của huyết tương là 7.4) chỉ cho phép những thuốc có tính base yếu vận chuyển qua và sau đó chuyển thành dạng ion hóa. Thành phần trong sữa luôn biến đổi và giữa những đường ống dẫn sữa những thành phần này có thể ảnh hưởng đến sự vận chuyển của thuốc vào sữa mẹ. Thành phần sữa ở cuối đường ống dẫn sữa chứa nhiều chất béo hơn ở đầu đường ống do vậy thường tập trung những thuốc tan trong dầu.
Sự vận chuyển thuốc qua sữa mẹ thường được mô tả bằng tỷ lệ nồng độ thuốc trong sữa trên nồng độ thuốc trong huyết tương, ký hiệu là M/P. Tính chính xác của giá trị này tăng lên dựa vào trị số diện tích dưới đường cong của lượng thuốc trong sữa mẹ và lượng thuốc trong huyết tương, ký hiệu là M/PAUC.
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.
Cách tốt nhất để bảo vệ chống lại bệnh sởi là tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị và rubella (MMR). Trẻ em có thể tiêm vắc xin phòng ngừa sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) để thay thế. Hầu hết những người được tiêm vắc-xin MMR và MMRV sẽ được bảo vệ suốt đời.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa.
Cúm là một bệnh đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm A hoặc B gây ra, xảy ra thành các đợt bùng phát và dịch bệnh trên toàn thế giới, chủ yếu vào mùa đông. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến cúm cao hơn ở những phụ nữ mang thai và mới sinh (trong vòng hai tuần sau khi sinh hoặc sảy thai) so với dân số nói chung.
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.