Tổng kết báo cáo ADR năm 2015 tại bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2015 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là 143 báo cáo, là một trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất năm 2015 trên cả nước. Số lượng báo cáo ADR năm 2015 tăng 32 báo cáo so với số lượng báo cáo ADR năm 2014 (111 báo cáo)
1.Phân bố theo tháng:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố tương đối đều trong các tháng, trung bình 12 báo cáo/tháng, tập trung nhiều hơn vào tháng 8 với 21 báo cáo chiếm tỷ lệ 14.6%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 7 với 5 báo cáo chiếm tỷ lệ 3.4%
2.Phân bố số báo cáo ADR theo Khoa:
Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR từ khoa Sanh cao nhất với 51 báo cáo chiếm tỷ lệ 35.7%, tiếp theo là khoa Hậu sản N với 22 báo cáo chiếm tỷ lệ 15.4%, Hậu Phẫu với 20 báo cáo chiếm tỷ lệ 14%, PTGMHS với 11 báo cáo chiếm tỷ lệ 7.7%. Đây là các Khoa thực hiện tốt việc báo cáo ADR kịp thời nhằm cung cấp thông tin về các phản ứng có hại của thuốc về Trung tâm ADR Quốc Gia.
Trong năm 2014 những Khoa không có báo cáo ADR thì trong năm 2015 đã thực hiện tốt việc theo dõi và báo cáo ADR như Khoa Hậu Sản M (8 báo cáo), Khoa Nội Soi
(3 báo cáo ADR), Hậu Sản H (2 báo cáo)
Khoa không có báo cáo ADR trong năm 2015 là khoa Sản C
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Bác sĩ |
97 |
67.8% |
Dược sĩ |
10 |
7% |
NHS |
36 |
25.2% |
Nhận xét:
Đối tượng báo cáo ADR chủ yếu là Bác sĩ với 97 báo cáo chiếm tỷ lệ 67.8%, có giảm so với năm 2014 (81.8%), tiếp theo là Dược sĩ với 10 báo cáo chiếm tỷ lệ 7% có tăng so với năm 2014 (6.4%), hộ sinh với 36 báo cáo chiếm tỷ lệ 25.2% có tăng so với năm 2014 (11.8%)
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Kháng sinh |
74 |
51.7% |
2 |
Thuốc giảm đau |
37 |
25.9% |
3 |
Oxytocin |
5 |
3.5% |
4 |
Thuốc gây mê, tê |
6 |
4.2% |
5 |
Thuốc ung thư |
1 |
0.7% |
6 |
Thuốc đặt phụ khoa |
6 |
4.2% |
7 |
Thuốc khác |
14 |
9.8% |
Nhận xét:
Kháng sinh là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 74 báo cáo chiếm tỷ lệ 51.7%, tăng so với năm 2014 (44.5%), tiếp theo là nhóm thuốc giảm đau với 37 báo cáo chiếm tỷ lệ 25.9%, tăng so với năm 2014 (20.9%)
5. Phân bố số báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân
Nhận xét:
Số báo cáo ADR trên bệnh nhân không có tiền căn dị ứng thuốc là 117 báo cáo chiếm tỷ lệ 81%, tăng so với năm 2014 (80%). Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 26 báo cáo chiếm tỷ lệ 19%, giảm so với năm 2014 (20%). Do vậy nên theo dõi sát bệnh nhân khi chỉ định sử dụng thuốc để kịp thời xử trí ADR.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (74 báo cáo) với đại diện là Cefotaxim, Cefadroxil, Metronidazol trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 63.5% (47 báo cáo)
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (37 báo cáo) với đại diện là Diclofenac, Ketoprofen, Paracetamol trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 78.4% (29 báo cáo)
Tài liệu: Bảng thống kê báo cáo ADR năm 2015 của Đơn vị Thông tin thuốc
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.