Tổng kết báo cáo ADR năm 2018 tại bệnh viện Từ Dũ
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 02 năm 2019
THÔNG TIN THUỐC
Tháng 02/2019
Tổng kết báo cáo ADR năm 2018 tại bệnh viện Từ Dũ
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2018 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là
312 báo cáo, tăng 8% so với số lượng báo cáo ADR năm 2017 (287 báo cáo), là bệnh viện xếp thứ hai có số lượng báo cáo ADR nhiều trên cả nước trong năm 2018.

Số lượng báo cáo ADR từ năm 2014 đến năm 2018
1.Phân bố số lượng báo cáo ADR theo tháng:

Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR phân bố tương đối đều giữa các tháng, trung bình 26 báo cáo/tháng, cao hơn năm 2017 (24 báo cáo/tháng), tập trung nhiều hơn vào tháng 5 với 38 báo cáo chiếm tỷ lệ 12,2%. Số lượng báo cáo ADR nhận được ít nhất vào tháng 2, tháng 11 với 15 báo cáo chiếm tỷ lệ 4,8%.
2.Phân bố số lượng báo cáo ADR theo Khoa:

Nhận xét:
Số lượng báo cáo ADR của khoa Sản N1 cao nhất với 44 báo cáo chiếm tỷ lệ 12,8%, khoa Sản N2 với 37 báo cáo chiếm tỷ lệ 11,9%, khoa Phụ với 33 báo cáo chiếm tỷ lệ 10,6%. Khoa Sản N1 và Sản N2 là những khoa duy trì thực hiện tốt báo cáo ADR kịp thời trong 2 năm 2017 và 2018 nhằm cung cấp thông tin về các phản ứng có hại của thuốc về Trung tâm ADR Quốc Gia.
Trong năm 2017 những khoa có số lượng báo cáo ADR thấp thì trong năm 2018 đã thực hiện tốt việc theo dõi và báo cáo ADR như khoa Chăm sóc trước sinh, khoa Hiếm muộn và khoa Sơ sinh.
3. Phân bố số báo cáo ADR theo người báo cáo
|
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
Dược sĩ |
14 |
4,5% |
Bác sĩ |
77 |
24,7% |
Hộ sinh |
221 |
70,8% |
Nhận xét:
Đối tượng báo cáo ADR năm 2018 chủ yếu là Hộ sinh với 221 báo cáo chiếm tỷ lệ 70,8% tăng so với năm 2017 (155 báo cáo), Bác sĩ thực hiện 77 báo cáo chiếm tỷ lệ 24,7%, giảm so với năm 2017 (98 báo cáo), tiếp theo là Dược sĩ báo cáo 14 trường hợp chiếm tỷ lệ 4,5% giảm so với năm 2017 (23 báo cáo).
4. Phân bố số báo cáo ADR theo nhóm thuốc
STT |
Nhóm thuốc |
Số báo cáo ADR |
Tỷ lệ |
1 |
Thuốc giảm đau |
135 |
43,3% |
2 |
Kháng sinh |
133 |
42,6% |
3 |
Thuốc đặt phụ khoa |
6 |
1,9% |
4 |
Thuốc gây mê, tê |
4 |
1,3% |
5 |
Thuốc ung thư |
2 |
0,6% |
6 |
Oxytocin |
1 |
0,3% |
7 |
Thuốc khác |
31 |
10% |
Nhận xét:
Hai nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR cao nhất là nhóm thuốc giảm đau và kháng sinh, chiếm tỷ lệ 85,9%.
Thuốc giảm đau là nhóm thuốc có tỷ lệ báo cáo ADR nhiều nhất với 135 báo cáo (gồm Diclofenac, Paracetamol..) chiếm tỷ lệ 43,3%, tăng so với năm 2017 (83 báo cáo), chủ yếu là Diclofenac với 115 báo cáo ADR tăng 45 báo cáo so với năm 2017. Đây là thuốc giảm đau được sử dụng theo phác đồ của Bệnh viện nên việc quan tâm đến phản ứng có hại của thuốc rất quan trọng trong việc chăm sóc dược cho bệnh nhân.
Kháng sinh với 133 báo cáo (gồm cefotaxim, amoxicillin+acid clavulanic, piperacillin+tazobactam..) chiếm tỷ lệ 42,6%, giảm so với năm 2017 (146 báo cáo), chủ yếu là cefotaxim với 54 báo cáo giảm 12 báo cáo so với năm 2017.
5. Phân bố số lượng báo cáo ADR theo cơ địa bệnh nhân

Nhận xét:
Số báo cáo ADR trên bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc là 32 báo cáo chiếm tỷ lệ 10,3%, giảm so với năm 2017 (53 báo cáo). Điều này thể hiện sự thận trọng của nhân viên y tế đối với những bệnh nhân có tiền căn dị ứng thuốc nên tỷ lệ xảy ra ADR trên nhóm bệnh nhân này giảm so với năm 2017.
6. Những thuốc được báo cáo nhiều nhất
Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 2 nhóm chính là:
- Nhóm thuốc kháng sinh (133 báo cáo) chủ yếu là Cefotaxim, Amoxicillin + acid clavulanic trong đó Cefotaxim chiếm tỷ lệ cao nhất với 40,6% (54 báo cáo).
- Nhóm thuốc kháng viêm giảm đau (135 báo cáo) chủ yếu là Diclofenac, Paracetamol trong đó Diclofenac chiếm tỷ lệ cao nhất với 85,2% (115 báo cáo).
Tài liệu: Bảng thống kê báo cáo ADR năm 2018 của Đơn vị Thông tin thuốc
TỔ TRƯỞNG ĐƠN VỊ THÔNG TIN THUỐC CHỦ TỊCH HĐT&ĐT
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.