Ngày 11/04/2017

Trầm cảm sau sinh ảnh hưởng đến một phần chín phụ nữ mới làm mẹ

    Ths. Ds Thân Thị Mỹ Linh (lược dịch)
    Khoa Dược

    Khoảng một phần chín phụ nữ ở Hoa Kỳ trải qua các triệu chứng trầm cảm sau sinh, theo một phân tích giám sát được công bố vào ngày 17 tháng 2 năm 2017 bởi Morbidity and Mortality Weekly Report. Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ bị trầm cảm sau sinh gần đây đã giảm ở một số tiểu bang.

    Tỷ lệ hiện mắc chứng trầm cảm sau sinh (postpartrum depressive symptoms - PDS) báo cáo năm 2012 là 11,5%  đối với 27 tiểu bang trong phân tích hiện tại. Các dữ liệu của CDC cho thấy ở các khu vực riêng biệt có sự khác biệt rất lớn từ mức thấp 8% ở Georgia đến 20,1% ở Arkansas.

    Tỷ lệ phụ nữ bị trầm cảm sau sinh cao nhất là những người mẹ 24 tuổi hoặc trẻ hơn và những người Mỹ gốc Ấn Độ, Alaska, Châu Á, hoặc Thái Bình Dương. Các yếu tố nguy cơ khác có liên quan đến trầm cảm sau sinh bao gồm thời gian được giáo dục ít hơn hoặc bằng 12 năm, tình trạng chưa lập gia đình, hút thuốc sau sinh và trải qua ba hoặc nhiều hơn vấn đề căng thẳng trong năm trước khi sinh con. Tình trạng mang thai đủ tháng nhưng sinh ra một em bé nhẹ cân và trường hợp em bé phải trải qua giai đoạn chăm sóc tích cực ở NICU cũng có liên quan đến trầm cảm sau sinh.

    Mẫu khảo sát năm 2012 bao gồm hơn 1,6 triệu phụ nữ đại diện cho 41% số sinh của Hoa Kỳ. Trầm cảm sau sinh đã được xác định chắc chắn bởi câu trả lời cho hai câu hỏi: "Kể từ khi con bạn mới chào đời, bao lâu bạn cảm thấy cảm xúc giảm xuống, chán nản hoặc tuyệt vọng?" và "Kể từ khi con bạn mới chào đời, bao lâu bạn cảm thấy ít quan tâm hoặc ít niềm vui khi làm mọi việc?" Những phụ nữ trả lời "luôn luôn" hoặc "thường xuyên" cho một trong hai câu hỏi được phân loại là có tình trạng trầm cảm sau sinh.

    Đầu năm 2017, một nghiên cứu dựa trên dân số lớn cho thấy bệnh đái tháo đường thai kỳ và trầm cảm trước khi mang thai cũng là những yếu tố nguy cơ đối với trầm cảm sau sinh.

    Hiện nay tỷ lệ phụ nữ bị trầm cảm sau sinh đang có xu hướng giảm dần ở một số khu vực. Tỷ lệ này giảm có thể do sự sụt giảm đáng kể tỷ lệ sinh trong số thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi từ 41,5 trên 1.000 phụ nữ năm 2007 xuống 24,2 trên 1000 phụ nữ vào năm 2014. Đồng thời, tỷ lệ sinh non giảm từ 10,4% năm 2007 xuống còn 9,5% vào năm 2014 và tỷ lệ phụ nữ có các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống trong năm trước khi sinh đã giảm 0,54% mỗi năm từ năm 2000 đến năm 2010.

    Về mặt trị liệu, các tác giả ghi nhận sự gia tăng chỉ định thuốc chống trầm cảm cho phụ nữ có thai từ 0,7% trong giai đoạn 2002-2006 đến 2,1% trong giai đoạn 2007-2010 điều này có thể góp phần làm giảm trầm cảm sau sinh.

    Các tác giả kêu gọi tăng cường nhận biết các yếu tố nguy cơ và cải thiện sàng lọc và điều trị trước và trong khi mang thai kể cả việc chỉ định thuốc chống trầm cảm trong thời kỳ mang thai để giảm tỷ lệ hiện mắc trầm cảm sau sinh cho các phân nhóm phụ nữ. Những nỗ lực này là cần thiết khi trầm cảm sau khi sinh có làm giảm tỷ lệ em bé được bú mẹ và thời gian cho bú mẹ ngắn hơn, sự liên kết giữa mẹ và bé và sự phát triển của trẻ sơ sinh bị rối loạn.

    Tài liệu tham khảo

    http://www.medscape.com/viewarticle/876015

     

    Ds Thân Thị Mỹ Linh

    Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ