Tương tác giữa kháng sinh và thuốc tránh thai phối hợp đường uống
Các thuốc tránh thai (TTT) đường uống có trên thị trường Mỹ bao gồm viên thuốc chỉ có progestin và các chế phẩm phối hợp estrogen-progestin một pha, hai pha, hoặc ba pha.[1] Đã có các báo cáo đề cập đến vấn đề kháng sinh uống có thể làm giảm hiệu quả của TTT phối hợp đường uống.
Các báo cáo ca về thất bại việc tránh thai bằng đường uống do kháng sinh chiếm tỷ lệ 1% đến 3%, cũng xảy ra khi dùng thuốc uống ngừa thai.[1-4] Sai số và các trường hợp kém tuân thủ dùng thuốc mà không được báo cáo có thể gây khó khăn cho việc đánh giá tần suất tương tác.[1,5]
Các kháng sinh, như ampicillin (Principen®), làm giảm lượng vi khuẩn đường ruột có liên quan đến sự thủy phân estrogen liên hợp ở dạ dày ruột.[2] Những nghiên cứu về dược động học ở các nhóm nhỏ phụ nữ chứng minh rằng chảy máu giữa chu kỳ kinh nguyệt hay gia tăng nồng độ FSH có thể xảy ra khi dùng ampicillin trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, điều này không liên quan đến sự thay đổi nồng độ hormone.[1] Vài kháng sinh, như trimethoprim-sulfamethoxazole (Bactrim®), có thể làm tăng nồng độ ethinyl estradiol trong huyết tương.[1,2]
Những phụ nữ đang sử dụng kháng sinh dễ quên uống thuốc ngừa thai hơn hoặc không muốn dùng thuốc tránh thai nếu họ bị các tác dụng phụ như nôn mửa, tiêu chảy.[2] Sự tuân thủ khi dùng thuốc và thời điểm uống thuốc khác nhau hay các bữa ăn có thể góp phần gây ra tương tác.[1,5]
Các biện pháp tránh thai khác được khuyến cáo ở những phụ nữ mà tỷ lệ thất bại việc tránh thai bằng đường uống là không chấp nhận được.[1] Họ cũng được khuyên không nên ngưng uống TTT trong khi đang điều trị kháng sinh để tránh tương tác.[5] Cần sử dụng biện pháp tránh thai khác nếu tiêu chảy hoặc chảy máu giữa chu kỳ kinh nguyệt xảy ra ở những phụ nữ dùng chung thuốc uống ngừa thai với kháng sinh (mặc dù chảy máu giữa chu kỳ hiện nay được xem là chỉ điểm sai cho sự giảm hiệu lực ngừa thai).[1,2]
Có nhiều tài liệu đề nghị áp dụng biện pháp tránh thai hỗ trợ trong khi điều trị kháng sinh, tất cả bệnh nhân nữ cần được thông báo về những tương tác có thể xảy ra, mặc dù tần suất thực sự là rất thấp.[5,6]
Ben M. Lomaestro, BS, PharmD
Senior Clinical Pharmacy Specialist in Infectious Diseases, Department of Pharmacy, Albany Medical Center Hospital, Albany, New York
Tài liệu tham khảo
-
Dickinson BD, Altman RD, Nielsen NH, Sterling ML. Drug interactions between oral contraceptives and antibiotics. Obstet Gynecol. 2001;98:853-860. Abstract
- Archer JS, Archer DF. Oral contraceptive efficacy and antibiotic interaction: a myth debunked. J Am Acad Dermatol. 2002;46:917-923. Abstract
- Blumenthal PD, Edelman A. Hormonal contraception. Obstet Gynecol. 2008;112:670-684. Abstract
- Miller DM, Helms SE, Brodell RT. A practical approach to antibiotic treatment in women taking oral contraceptives. J Am Acad Dermatol. 1994;30:1008-1011. Abstract
- Weaver K, Glasier A. Interaction between broad-spectrum antibiotics and the combined oral contraceptive pill. A literature review. Contraception. 1999;59:71-78. Abstract
- Burroughs KE, Chambliss ML. Are antibiotics related to oral combination contraceptive failures? Arch Fam Med. 2000;9:81-82.
- American College of Obstetricians and Gynecologists. Use of hormonal contraception in women with coexisting medical conditions. ACOG Practice Bulletin. 2006;107:1453-1472. Abstract
Ds. Nguyễn Thị Thúy Anh (Dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Probiotics được định nghĩa là “các vi sinh vật sống, khi được đưa vào cơ thể với số lượng đủ, sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe của vật chủ”. Các chủng vi khuẩn tạo axit lactic là quan trọng nhất trong thực phẩm và dinh dưỡng, chủng thuộc chi Lactobacillus và Bifidobacterium là những probiotic được sử dụng phổ biến nhất, ngoài ra còn kể đến các chi Bacillus, Streptococcus, Enterococcus, Saccharomyces và Escherichia coli
- Bệnh viện đã thực hiện 378 báo cáo ADR, giảm 7,9% so với năm 2023 (408 báo cáo), tăng 14,2% so với năm 2022 (331 báo cáo).
- Số lượng báo cáo ADR ngoại trú là 18 báo cáo, giảm 3,6 lần so với năm 2023 (66 báo cáo).
- Bệnh viện Từ Dũ được Trung tâm DI&ADR quốc gia xếp hạng 8/991 cơ sở khám chữa bệnh có hoạt động theo dõi ADR hiệu quả trong báo cáo tổng kết ADR quốc gia vào tháng 9/2024.
Mirvetuximab soravtansine-gynx đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát dương tính với thụ thể folat alpha (FRα), kháng hóa trị, là những bệnh nhân đã trải qua 3 liệu trình điều trị trước đó. Theo các chuyên gia, bệnh nhân mắc các loại ung thư này thường được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, trải qua phẫu thuật và sau đó được điều trị bằng phác đồ hóa trị có platinum nhưng có thể trở nên kháng thuốc.
Kháng sinh (KS) phổ rộng được xem như “thần dược” để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi tác nhân gây bệnh chưa được xác định. Mục đích sử dụng KS phổ rộng nhằm bao phủ nhiều loại tác nhân vi khuẩn gram dương và gram âm, bao gồm cả các tác nhân kháng thuốc trong khi chờ kết quả nuôi cấy. Tuy nhiên, việc sử dụng bừa bãi các KS phổ rộng cũ và mới đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh (AMR) – một vấn đề sức khỏe toàn cầu đáng lưu ý.
Những dữ kiện của một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy: đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và tử vong ở trẻ sơ sinh nguyên nhân do liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Có nhiều lý do như: thay đổi hệ vi sinh vật âm đạo, giảm đáp ứng miễn dịch và quá trình điều hoà thích nghi của vi khuẩn.
Tiền sản giật là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ. Bệnh lý tiền sản giật có liên quan đến sự xâm lấn tế bào nuôi nhau thai và sự tái cấu trúc động mạch xoắn tử cung. Với đặc tính kháng viêm, aspirin được giả thuyết rằng có thể cải thiện sự bám nhau giúp ngăn ngừa tiền sản giật. Vì vậy, spirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng để dự phòng tiền sản giật trong thai kỳ. Mặt khác, aspirin cũng được chỉ định cho các trường hợp thai giới hạn tăng trưởng, sinh non, thai lưu.