Tương tác Thuốc - Bệnh thường gặp trên những bệnh nhân lớn tuổi
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Thuốc có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của hầu hết những người lớn tuổi nhưng đồng thời cũng có thể gây ra những tác dụng không mong muốn nếu như chúng ta sử dụng thuốc không hợp lý (gọi là sự tương tác giữa thuốc và bệnh).
Sự chỉ định sử dụng thuốc hợp lý hay không hợp lý đều có thể dẫn tới tương tác giữa thuốc – bệnh, điều này có nghĩa là thuốc đó có nguy cơ làm trầm trọng thêm một bệnh trước đó của bệnh nhân.
Những bệnh nhân lớn tuổi già yếu đặc biệt có sự nhạy cảm đối với những biến cố không mong muốn xảy ra do sự tương tác thuốc – bệnh bởi vì những người lớn tuổi thường mắc nhiều bệnh mãn tính, họ phải sử dụng nhiều thứ thuốc do vậy giảm khả năng duy trì sự cân bằng trong cơ thể.
NỘI DUNG
Người cao tuổi có những thay đổi nhiều so với người trẻ :
+ Hấp thu: pH dạ dày tăng, lưu lượng máu giảm, chuyển động bao tử có thể chậm trễ. Hai yếu tố đầu làm giảm hấp thu trong khi yếu tố thứ ba có thể làm thuốc hấp thu nhiều hơn.
+ Thải trừ : Sau 40 tuổi, lưu lượng máu qua thận giảm, độ lọc tiểu cầu thận giảm chính vì vậy khi sử dụng thuốc cho người cao tuổi nên dùng liều nhỏ hơn đối với những thuốc thải trừ chính qua thận.
Mc Leod , người Canada là người đầu tiên đưa ra những tiêu chuẩn thống nhất về sự tương tác thuốc – bệnh ở những người lớn tuổi. Sau đó, Beers, một người Mỹ đã phát triển hệ thống những tiêu chuẩn cho từng nhóm thuốc nhưng không áp dụng cho những người lớn tuổi mắc bệnh mãn tính.
Một vài nghiên cứu đã kiểm tra dịch tễ học của sự tương tác thuốc – bệnh ở người lớn tuổi nhưng chủ yếu tập trung ở những bệnh nhân không nhập viện.Một nghiên cứu của Anh cho thấy có 14.4% bệnh nhân lớn tuổi uống Benzodiazepin bị phản chỉ định do có tiền sử bị suy giảm nhận thức.
Một nghiên cứu gần đây đã kiểm tra một biến cố tương tác thuốc – bệnh khi sử dụng hệ thống tiêu chuẩn của Beers ở 229 bệnh nhân lớn tuổi nội trú được cho về nhà; kết quả cho thấy trong số những bệnh nhân được cho về có 30% bệnh nhân có một hoặc nhiều hơn sự tương tác giữa thuốc – bệnh.
* Nội dung chi tiết vui lòng bạn tải file .pdf.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.