Vắc xin phòng ngừa HPV: hai liều hay ba liều
DS. Huỳnh Thị Hồng Gấm (dịch)
Khoa Dược - BV Từ Dũ
Trong một thử nghiệm lâm sàng quốc tế gần đây, Iversen và cộng sự đã đánh giá liệu tiêm vắc xin phòng ngừa HPV theo chế độ 2 liều trên thanh thiếu niên từ 9-14 tuổi có thể tạo ra đáp ứng miễn dịch tương tự như chế độ tiêm 3 liều trên thiếu nữ 16-26 tuổi. Các dữ liệu thu nhận được từ năm 2013 đến năm 2015 tại 52 cơ sở ở 15 nước khác nhau. Các thiếu nữ mạnh khỏe và chưa có quan hệ tình dục trước khi tham gia nghiên cứu.
5 nghiên cứu đoàn hệ khác nhau, với mỗi nghiên cứu khoảng 300 người tham gia. Các bé gái từ 9-14 tuổi nhận 2 liều vắc xin phòng ngừa HPV cách nhau 6 tháng, một nghiên cứu tương tự được thực hiện riêng lẻ trên các bé trai có độ tuổi tương tự. Ở nhóm thứ 3, gồm cả bé trai và bé gái 9-14 tuổi, nhận 2 liều vắc xin cách nhau 12 tháng. Cuối cùng, 2 nghiên cứu đoàn hệ (các thiếu nữ 9-14 tuổi và nhóm chứng là các phụ nữ trẻ từ 16-20 tuổi) nhận 3 liều vắc xin chuẩn trong vòng 6 tháng.
Đáp ứng kháng thể với các chuỗi vắc xin được đánh giá ở mức cơ bản và sau liều cuối cùng. Sự đáp ứng dương tính với vắc xin thay đổi thùy theo kiểu huyết thanh được nói đến.
Nhìn chung tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh rất tốt (> 98%) bất kể là nhóm nào. Tuy nhiên, nhìn chung, trong 3 nhóm, mức kháng thể cao hơn ở nhóm tiêm phòng vắc xin 2 liều trên những bé gái còn trẻ tuổi hơn. Sử dụng phương pháp tiếp cận không thấp kém hơn, đáp ứng với mỗi type huyết thanh toàn thể cũng cao, khoảng 98.5%-100%. Nhìn chung, chế độ 2 liều cách nhau 12 tháng tốt hơn 2 liều cách nhau 6 tháng. Theo dõi 6 tháng sau liều vắc xin cuối, mức độ đáp ứng duy trì với tỷ lệ mong đợi. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng, kháng thể đáp ứng với vắc xin HPV 9 – valent với 2 liều riêng biệt cách nhau 6 tháng hoặc 12 tháng không kém hơn so với đáp ứng với chế độ 3 liều chuẩn trên phụ nữ và vị thành niên.
Quan điểm
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ có thể đã nghe khuyến cáo hiện tại về việc xem xét chế độ tiêm 2 liều vắc xin phòng ngừa HPV, nhưng ít người nhận thức được nghiên cứu này công bố kết quả cùng thời điểm. Thật tuyệt vời khi xem lại dữ liệu thực tế và đánh giá tỷ lệ đáp ứng đều cao giống nhau trong tất cả các phân nhóm, bất kể chế độ liều. Những dữ liệu này cho thấy rằng chế độ 2 liều là tốt, nhưng chúng ta cũng cần xem xét khoảng thời gian bảo vệ ở chế độ 2 liều so với 3 liều, và tỷ lệ hoàn thành lịch trình chế độ 2 liều sẽ vượt hơn tỷ lệ này ở chế độ 3 liều. Có thể là nhiều cá nhân sẽ hoàn thành lịch trình chế độ 2 liều hơn bởi vì tiêm ít lần hơn. Mặt khác, tiêm cách nhau 12 tháng có thể làm giảm số bệnh nhân hoàn thành lịch trình tiêm phòng. Trong một hoặc hai năm nữa sẽ có thể đánh giá tác động của sự thay đổi này dựa trên các báo cáo về tỷ lệ hoàn thành lịch trình tiêm phòng.
Thật đáng chú ý rằng, mức ngưỡng kháng thể được sử dụng cho kết cục đại diện cho việc bảo vệ chống nhiễm HPV. Theo thời gian, có thể so sánh tỷ lệ nhiễm giữa các cá nhân đã nhận chế độ tiêm phòng 2 liều so sới những người đã nhận chế độ 3 liều, đưa ra câu trả lời dứt khoát về việc liệu chế độ tiêm phòng 2 liều có bảo vệ như chế độ 3 liều.
Nguồn
http://www.medscape.com/viewarticle/874428
Tài liệu tham khảo
Iversen O, Miranda MJ, Ulied A, et al. Immunogenicity of the 9-valent HPV vaccine using 2-dose regimens in girls and boys vs a 3-dose regimen in women. JAMA. 2016;316:2411-2421.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.