Vaccin đã hết hạn có sử dụng được không?
Cơ chế hoạt động của vaccin là khi đưa vào cơ thể với một liều lượng nhất định tùy từng loại sẽ làm cho hệ miễn dịch nhận diện vaccin là vật lạ nên hủy diệt chúng và “ghi nhớ” chúng. Về sau, khi tác nhân gây bệnh thực thụ xâm nhập cơ thể, hệ miễn dịch đã ở tư thế sẵn sàng để tấn công tác nhân gây bệnh nhanh chóng hơn và hữu hiệu hơn bằng cách huy động nhiều thành phần của hệ miễn dịch, đặc biệt là đánh thức các tế bào lympho nhớ. Đây chính là các ưu điểm của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
![]() Cán bộ y tế cần kiểm tra kỹ hạn sử dụng của vaccin khi tiêm phòng cho trẻ.
|
|
Theo quy định, các sản phẩm thuốc nếu ghi hạn dùng phải ghi đủ ngày, tháng, năm sản xuất và ngày, tháng, năm hết hạn (mỗi nhóm bằng 2 chữ số, cách nhau bởi dấu chấm hoặc gạch chéo). Trước đây có một số sản phẩm chỉ ghi tháng và năm đã gây thắc mắc cho người dùng.
Chẳng hạn nếu chỉ ghi hạn sử dụng là 10/2012 thì người dùng thuốc sẽ không biết là thuốc này sử dụng đến hết ngày 30/09/2012 hay là hết ngày 31/10/2012. Vì vậy hiện nay các loại thuốc không ghi như vậy nữa. Tuy nhiên, có một số sản phẩm thuốc, vaccin của nước ngoài nhập vào nước ta vẫn chỉ ghi tháng và năm hết hạn.
Ðối với các loại thuốc, sinh phẩm, vaccin như thế, Bộ Y tế quy định phải dán thêm nhãn phụ trên bao bì ghi rõ ngày hết hạn sử dụng là ngày đầu tiên của tháng mà sản phẩm ghi hết hạn. Chẳng hạn nếu sản phẩm ghi hạn sử dụng là tháng 2/2012 thì kể từ ngày 1/2/2012 sản phẩm này được coi là hết hạn và không sử dụng cho người.
|
Không được sử dụng các loại vaccin đã hết hạn cho người
Theo Sức khỏe & đời sống
Kháng sinh chiếm gần 80% tổng số đơn thuốc được kê trong thời kỳ mang thai, và khoảng 20%–25% phụ nữ sẽ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs), nhiễm trùng đường sinh dục, nhiễm trùng da - mô mềm và nhiễm trùng đường hô hấp. Việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ luôn cần được cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích.
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý viêm mạn tính phụ thuộc estrogen, ảnh hưởng khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung ngoài buồng tử cung, gây đau bụng kinh, đau khi giao hợp, đau vùng chậu kéo dài và vô sinh, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.
Điều trị cần được cá thể hóa, tùy theo mức độ triệu chứng, vị trí tổn thương và nhu cầu sinh sản. Hướng dẫn hiện nay khuyến nghị kết hợp giữa điều trị nội khoa, ngoại khoa và hỗ trợ không dùng thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) là vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng người bệnh nếu không được nhận biết sớm và xử trí kịp thời.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.




