Vắc-xin cúm và thai kỳ
DS. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – Bệnh viện Từ Dũ
Đặt vấn đề
Cúm là bệnh viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp gây nên bởi virus cúm. Bệnh lây truyền nhanh, thường thành dịch.
Mang thai có liên quan đến sự thay đổi sinh hóa, chuyển hóa, huyết động học, cũng như thay đổi miễn dịch ở người mẹ. Những thay đổi này trở nên rõ rệt nhất trong 3 tháng cuối thai kỳ, bao gồm giảm dung tích phổi và thể tích khí, tăng cung lượng tim và tiêu thụ oxy. Mặc dù khả năng phụ nữ mang thai bị nhiễm cúm theo mùa không cao hơn so với dân số nói chung, nhưng việc suy giảm hệ miễn dịch qua trung gian tế bào kèm với sự thay đổi sinh lý khi mang thai làm tăng nguy cơ bị biến chứng nghiêm trọng khi mắc bệnh cúm. Phụ nữ mang thai có thêm các bệnh như bệnh hen suyễn hoặc bệnh tiểu đường sẽ tăng nguy cơ bị biến chứng gấp 3-4 lần khi nhiễm thêm cúm.
Thông tin về tính an toàn của vắc-xin cúm
Thông tin về tính an toàn của vắc-xin cúm đã được công bố ở nhiều nghiên cứu.
Trường Cao đẳng Sản phụ khoa của Mỹ (ACOG), với sự hỗ trợ của CDC đã tiến hành cuộc khảo sát trên toàn quốc vào tháng 5 năm 2004. Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy 52% bác sĩ sản đề nghị tiêm phòng cúm cho một người phụ nữ khỏe mạnh trong ba tháng đầu của thai kỳ, 95% bác sĩ sản đề nghị chủng ngừa cho phụ nữ mang thai khỏe mạnh sau 3 tháng đầu thai kỳ, 63% đề nghị nên tiêm phòng cho một người phụ nữ có một yếu tố nguy cơ trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Trong mùa cúm 1976-1977, 56 phụ nữ được chủng ngừa cúm trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ đã được đánh giá. Kết quả cho thấy không có phản ứng ngay lập tức đáng chú ý được quan sát, và cũng không được có bất kỳ sự khác biệt trong quá trình mang thai giữa những sản phụ được tiêm ngừa cúm và những sản phụ không tiêm ngừa.
Deinard và Ogburn đánh giá trên 189 phụ nữ được chủng ngừa cúm trong thời gian mang thai và ghi nhận không có sự khác biệt về sức khỏe sản phụ hay kết quả mang thai so với nhóm chứng gồm 517 phụ nữ mang thai không tiêm ngừa.
Từ năm 1959 đến năm 1965, trên 2000 phụ nữ mang thai được tiêm vắc xin cúm, gần một phần ba trong số đó được tiêm ngừa trong 3 tháng đầu thai kỳ. Những phụ nữ mang thai được chủng ngừa cúm không tăng nguy cơ thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, khối u ác tính, hoặc khuyết tật thần kinh
Trong một nghiên cứu dài hạn, Deinard và Ogburn phát hiện không có mối liên hệ giữa chủng ngừa cúm trên người mẹ và các biến chứng trên người mẹ hoặc trẻ sơ sinh. Không có dị tật quái thai được công bố và các con của người mẹ được chủng ngừa cúm không có sự khác biệt về thể chất hoặc thần kinh so với trẻ bình thường.
Trong một nghiên cứu hồi cứu, 3.160 trẻ sinh ra từ bà mẹ chủng ngừa cúm và 37.969 trẻ sinh ra từ bà mẹ không được chủng ngừa cho thấy không có sự khác biệt đối với tuổi thai, cân nặng hoặc thời gian nhập viện chờ sinh.
Thông tin về Thimerosal
Sau khi xem xét các bằng chứng hiện có đối với thimerosal và những mối quan tâm cho sự phát triển bào thai, ACIP kết luận: "Những lợi ích của tiêm phòng cúm cho tất cả các nhóm được đề nghị, bao gồm cả phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ nhiều hơn những lo ngại trên cơ sở lý thuyết về nguy cơ tiếp xúc thimerosal qua tiêm phòng. Các nguy cơ làm bệnh tăng nghiêm trọng do nhiễm virus cúm đang tăng cao trong cả trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai, và tiêm chủng đã được chứng minh để giảm nguy cơ bị bệnh cúm nặng và các biến chứng y tế tiếp theo.
Kết luận
Vắc xin ngừa cúm an toàn và hiệu quả trong thời kỳ mang thai. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào chứng minh vắc xin cúm làm tăng nguy cơ biến chứng trên mẹ hoặc ảnh hưởng lên thai nhi. Ngoài ra, không có bằng chứng khoa học chứng minh chất thimerosal trong vắc xin cúm ảnh hưởng có hại đến trẻ em có mẹ được chủng ngừa cúm khi mang thai. Chủng ngừa cúm ở người mẹ sẽ làm giảm khả năng tiếp xúc virus cho trẻ sơ sinh và hạn chế những biến chứng có thể tăng nặng do bệnh cúm.
Tài liệu tham khảo
1.American College of Obstetricians and Gynecologists Committee on Obstetric Practice (2010), ACOG Committee Opinion No. 468: Influenza vaccination during pregnancy, 2010 Oct;116(4):1006-7.
2.Tamma PD, Ault KA, del Rio C, Steinhoff MC, Halsey NA, Omer SB (2009), Safety of influenza vaccination during pregnancy, Am J Obstet Gynecol. 2009 Dec;201(6):547-52. Epub 2009 Oct 21.
3.MMWR Morb Mortal Wkly Rep (2005). Influenza vaccination in pregnancy: practices among obstetrician-gynecologists--United States, 2003-04 influenza season, 2005 Oct 21;54(41):1050-2
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.