Vai trò của Metformin trong việc tăng cường tác dụng điều trị của Paclitaxel trong ung thư nội mạc tử cung
DS. Nguyễn Tấn Xuân Trang (lược dịch)
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Ung thư nội mạc tử cung (UT NMTC) thường bắt đầu như một khối u lành tính trong niêm mạc tử cung, nhưng sau đó lan sang các cơ quan khác dưới dạng khối u ác tính. Nó có liên quan chặt chẽ với tình trạng béo phì, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) và đái tháo đường.
UT NMTC được điều trị dựa trên mức độ nghiêm trọng bằng các hình thức phẫu thuật, xạ trị hoặc hóa trị với cisplatin, carboplatin hoặc paclitaxel. Metformin được sử dụng như một liệu pháp đầu tay để kiểm soát các yếu tố nguy cơ góp phần gây UT NMTC, bao gồm PCOS và béo phì. Metformin điều chỉnh lượng đường trong máu, giảm nồng độ androgen và giúp giảm cân. Các lựa chọn điều trị khác bao gồm phẫu thuật cắt bỏ ống dẫn trứng, xạ trị bằng tia X hoặc liệu pháp miễn dịch.
Paclitaxel là một tác nhân kháng vi ống ức chế sự sao chép tế bào, trong khi carboplatin là một tác nhân alkyl hóa ức chế tổng hợp DNA. Mặc dù paclitaxel được FDA chấp thuận trong điều trị ung thư vú và carboplatin được chấp thuận trong điều trị ung thư buồng trứng, nhưng chúng cũng thường được sử dụng kết hợp trong điều trị UT NMTC. Khi được sử dụng cùng nhau, giúp tăng tỷ lệ đáp ứng thuốc lên gấp đôi và cải thiện khả năng sống sót. Metformin là một loại thuốc trị tiểu đường thuộc nhóm biguanide. Các loại thuốc này đều có thể gây ức chế tủy xương, do đó, sử dụng kết hợp có thể dẫn đến nguy cơ tăng tác dụng phụ và giảm thêm số lượng bạch cầu hoặc tiểu cầu của bệnh nhân.
Con đường phổ biến về lây lan ung thư là sự truyền tín hiệu PI3K/AKT/mTOR. Nó được kích hoạt khi các tế bào bị tổn thương, đặc biệt là trong thời gian kháng insulin. Ở bệnh nhân tiểu đường và PCOS, việc điều chỉnh nồng độ insulin có thể làm giảm khả năng hình thành ung thư ác tính.
Trên thực tế, việc kích hoạt quá mức mTORC1 và ức chế mTORC2 làm trầm trọng thêm tình trạng kháng insulin và phát triển ung thư. Về mô hình phát triển ung thư, mTORC1 cho phép tế bào ung thư tồn tại trong khi mTORC2 cho phép chúng tăng sinh thông qua quá trình phosphoryl hóa trực tiếp yếu tố tăng trưởng giống insulin.
Để chống lại mức glucose tăng cao ở bệnh nhân tiểu đường, việc kích hoạt mTORC1 nhằm tăng cường hấp thu glucose, nhưng việc kích hoạt quá mức có thể khiến các tế bào trở nên mẫn cảm với insulin. Metformin đặc biệt tác động vào con đường này bằng cách “tăng cường tín hiệu thông qua thụ thể insulin…tiếp theo là giảm nồng độ insulin lưu thông.”
Metformin cũng làm giảm tình trạng kháng insulin bằng cách kích hoạt quá trình phosphoryl hóa AMPK, về bản chất ngăn chặn tác dụng mTORC1. mTORC2 kích hoạt con đường AKT để ngăn chặn sự hấp thu glucose, đặc biệt là trong mô mỡ.
Trong các nghiên cứu gần đây, liệu pháp kết hợp metformin và paclitaxel liều thấp tạo ra kết quả tương tự như khi sử dụng đơn độc paclitaxel. Khi phối hợp với nhau, chúng hiệp đồng ức chế sao chép DNA G2.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm về tác động của chúng đối với quá trình phosphoryl hóa protein ribosome S6, vì paclitaxel cho phép tổng hợp protein và tế bào trong khi metformin ức chế nó thông qua con đường mTOR thường quy.
Xét về hoạt tính kháng khối u, metformin ngăn hoạt động của hTERT mRNA bằng cách ức chế sự biểu hiện telomerase quá mức ở NMTC. Từ đó, các nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng metformin có thể được sử dụng để ngăn ngừa sự phát triển của không chỉ đái tháo đường và béo phì mà còn đối với các bệnh ung thư liên quan đến NMTC.
Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2/3 cho thấy, kết quả phối hợp này đầy hứa hẹn. Tỷ lệ sống không tiến triển bệnh cao hơn và tỷ lệ sống toàn bộ cũng cao hơn gần 5% khi dùng metformin. Với metformin, tác dụng phụ xảy ra ở ít hơn 20% bệnh nhân, trong khi việc sử dụng phác đồ thông thường có tỷ lệ biến cố huyết khối tắc mạch cao hơn.
Metformin cải thiện lượng đường trong máu và giúp giảm cân, do đó làm giảm khả năng phát triển UT NMTC. Tuy nhiên, chưa có đủ bằng chứng về tính an toàn và hiệu quả liên quan đến thuốc ức chế mTOR và việc sử dụng metformin để điều trị UT NMTC. Cần có thêm nghiên cứu để xác định có tác dụng phụ nào có thể phát sinh khi sử dụng metformin như một liệu pháp bổ trợ với paclitaxel và carboplatin.
Tài liệu tham khảo: https://www.pharmacytimes.com/view/clinical-overview-adjunctive-role-of-metformin-in-enhancing-paclitaxel-s-therapeutic-actions-in-endometrial-cancer (28/2/2023)
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 204 báo cáo ADR, tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2024 (160 báo cáo).
Việc sử dụng hệ thống phóng thích Levonorgestrel trong tử cung (LNG-IUS: Levonorgestrel-releasing intrauterine system) có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu ở Đan Mạch ghi nhận 14 trường hợp ung thư vú trên 10.000 phụ nữ tránh thai bằng LNG-IUS so với phụ nữ tránh thai không dùng nội tiết.
Theo kết quả của một nghiên cứu trên JAMA Network Open, tiêm vắc-xin cúm không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết quả bất lợi trong thời kỳ chu sinh đối với những người mang thai liên tiếp. Các tác giả nghiên cứu cho biết những phát hiện này ủng hộ các khuyến nghị hiện tại cho những người mang thai hoặc những người có thể mang thai trong mùa cúm.
Staphylococcus aureus, một loại vi khuẩn gram dương, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới, với tỷ lệ tử vong từ 15% đến 30% và ước tính có 300.000 ca tử vong mỗi năm.
Các loài thuộc chi Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong âm đạo có khoảng 25% ở phụ nữ, do vậy việc phát hiện nấm không đủ để chẩn đoán bệnh. Ước tính có 75% phụ nữ bị nhiễm nấm candida âm đạo ít nhất một lần trong đời. Nồng độ estrogen và tăng sản xuất glycogen ở âm đạo, tình trạng này xảy ra thường gặp và nghiêm trọng hơn trong thai kỳ. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có liên quan đến những kết quả bất lợi trong sản khoa như vỡ ối sớm, chuyển dạ sớm, viêm màng ối, nhiễm nấm candida da ở trẻ sơ sinh và nhiễm trùng hậu sản 1. Bệnh viêm âm hộ-âm đạo do nấm candida là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất có triệu chứng gây ngứa và tiết dịch âm đạo. Biểu hiện của bệnh là tình trạng viêm thường gặp ở các loài nấm Candida với các triệu chứng là ngứa và viêm đỏ.