Yasmin: Cập nhật về nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Drug Safety Update - Volume 3, Issue 9 April 2010 from MHRA and CHM
Khuyến cáo đối với thầy thuốc
- Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch ở phụ nữ sử dụng Yasmin, cũng như đối với tất cả các thuốc tránh thai phối hợp đường uống, thấp hơn nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch do thai kỳ.
- Bằng chứng mới đây cho rằng nguy cơ VTE do Yasmin có thể cao hơn một chút so với đánh giá trước đây, và ở giữa nguy cơ do viên tránh thai chứa levonorgestrel và viên chứa desogestrel hay gestodene. Cần tiến hành phân tích thêm trước khi đưa ra kết luận chắc chắn bởi một số giới hạn về phương pháp của các nghiên cứu gần đây.
- Các thầy thuốc cần biết về chứng cứ mới khi lựa chọn loại thuốc ngừa thai phù hợp cho người phụ nữ muốn bắt đầu hoặc chuyển đổi biện pháp tránh thai.
- Bất cứ quyết định kê đơn nào cũng nên lưu ý đến các chống chỉ định và các yếu tố nguy cơ của người phụ nữ.
- Tất cả thuốc tránh thai phối hợp đường uống, bao gồm Yasmin, nên được kê đơn thận trọng đối với trường hợp béo phì (chỉ số thể trọng > 30), hay những người có nguy cơ cao thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch.
- Tất cả thuốc tránh thai chứa hormon đều có hiệu quả cao, an toàn và có lợi đối với sức khỏe, bao gồm cả việc tránh mang thai ngoài ý muốn. Nếu sử dụng hợp lý, lợi ích của các thuốc ngừa thai kết hợp đường uống lớn hơn nguy cơ VTE vốn hiếm khi xảy ra.
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.