Vượt qua thách thức - Mổ nội soi thành công cho bệnh nhân lớn tuổi tại bệnh viện Từ Dũ
ThS. BS. Lê Võ Minh Hương
P. Công tác xã hội
Cụ bà T.T.M. 89 tuổi vừa trải qua ca Mổ nội soi Cắt tử cung hoàn toàn và 2 phần phụ một cách an toàn và thành công tại bệnh viện Từ Dũ. Với kỹ thuật mổ nội soi ít xâm lấn, sức khỏe của Cụ bà đã phục hồi nhanh chóng chỉ 12h sau mổ.
Cách nhập viện 1 ngày, Bà M. thấy đau bụng và nôn ói nhiều nên đi khám tại một bệnh viện tuyến dưới và được chuyển lên bệnh viện Từ Dũ vào ngày 25/7/2023.
Sau khi được thăm khám cẩn thận, người bệnh được chẩn đoán U buồng trứng Phải có biến chứng xoắn phần phụ kèm theo bệnh lý tăng sinh nội mạc tử cung, tăng huyết áp mạn, đái tháo đường type 2, bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ. Do đó, người bệnh cần được điều trị trong thời gian nhanh nhất bằng phương pháp phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn và 2 phần phụ.
Với tiêu chí đặt sự an toàn người bệnh và hiệu quả điều trị lên cao nhất, bệnh viện đã hội chẩn liên chuyên khoa và quyết định thực hiện phẫu thuật bằng phương pháp mổ nội soi thay vì mổ mở bụng.
Ca mổ được thực hiện ngay trong ngày 25/7.
Ekip mổ đã rất thành công khi hoàn thành cuộc phẫu thuật chỉ trong 1 tiếng đồng hồ và bệnh nhân gần như không bị chảy máu. Quá trình gây mê và hồi tỉnh diễn ra rất an toàn và thuận lợi. Người bệnh đã có thể vận động đi lại chỉ 12 giờ sau mổ mà không cần phải dùng thuốc giảm đau.
Trên một bệnh nhân lớn tuổi như vậy, quá trình gây mê và nội soi ổ bụng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ trong lúc phẫu thuật, đặc biệt người lớn tuổi với nhiều bệnh nền như cơ tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp, đái tháo đường. Tuy nhiên, kinh nghiệm của ekip phẫu thuật trong đó có bác sĩ gây mê hồi sức nhiều kinh nghiệm cùng với phẫu thuật viên tay nghề cao là yếu tố quyết định giúp người bệnh được lựa chọn mổ nội soi.

Với người bệnh lớn tuổi và đái tháo đường, vết mổ nội soi (chỉ 1 cm) sẽ ít nguy cơ nhiễm trùng và dễ lành vết thương hơn một vết rạch lớn trên bụng (khoảng 10 cm) khi mổ mở.
So với mổ mở bụng, mổ nội soi có rất nhiều ưu điểm như bệnh nhân ít đau sau mổ, giảm nguy cơ nhiễm trùng, vết mổ nhỏ, thẩm mỹ, lành thương tốt và sức khỏe phục hồi nhanh chóng sau mổ. Tuy nhiên, đây là một phương pháp kỹ thuật cao, đòi hỏi ekip phẫu thuật cần được trải qua đào tạo chuyên sâu, có kỹ năng và nhiều kinh nghiệm.
Với hơn 30 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện phẫu thuật nội soi, phẫu thuật nội soi phụ khoa luôn là một trong những mũi nhọn phát triển của bệnh viện Từ Dũ. Với những ưu điểm vượt trội trong hiệu quả điều trị, khả năng phục hồi sau mổ, ít xâm lấn so với mổ mở bụng, bệnh viện từ Dũ ngày càng mở rộng phạm vi chỉ định cho phẫu thuật nội soi như với người bệnh lớn tuổi, người bệnh có sa sinh dục hoặc với những trường hợp khối u to, thậm chí là mổ nội soi cho bệnh lý ung thư phụ khoa.
Bệnh viện Từ Dũ đã làm được điều này nhờ vào đội ngũ phẫu thuật viên nội soi tay nghề cao, với hơn 30 năm đào tạo và huấn luyện về phẫu thuật nội soi, tiến bộ trong kỹ thuật gây mê hồi sức, đội ngũ bác sĩ gây mê hồi sức nhiều kinh nghiệm, cũng như trang thiết bị phẫu thuật nội soi và gây mê hồi sức ngày càng cao cấp với hệ thống phòng mổ đạt chuẩn quốc tế.
Ngày 28/5/2025, một ca can thiệp tim bào thai phức tạp đã được thực hiện thành công tại Bệnh viện Từ Dũ với sự phối hợp của Bệnh viện Nhi Đồng 1, mở ra hy vọng sống cho một thai nhi mắc dị tật tim bẩm sinh nặng. Đây là ca khó nhất trong số 9 ca can thiệp tim bào thai tại BV Từ Dũ tính đến thời điểm hiện tại, do nhiều yếu tố bất lợi liên quan đến tuổi thai, giải phẫu tim và tư thế thai nhi.
Thai phụ K. W. S. 41 tuổi, người Singapore, mang thai lần đầu sau hơn 10 năm hiếm muộn, nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Dự sinh tháng 9/2025. Chị K. thực hiện IVF và theo dõi thai kỳ tại hai bệnh viện lớn tại Singapore (KK Women’s and Children’s Hospital và Singapore General Hospital). Hành trình thai kỳ của cô không hề suôn sẻ. Từ tuần thứ 18, các bác sĩ tại đây đã phát hiện thai nhi có bất thường về tim mạch, với tình trạng hở van hai lá nặng và thông liên thất. Tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn khi ở tuần thứ 21, siêu âm tim thai cho thấy hẹp van động mạch chủ nặng, van hai lá dày, hở van hai lá nặng và thiểu sản thất trái. Niềm hạnh phúc của một người mẹ vừa chớm nở đã bị giáng xuống một đòn tàn nhẫn khi bác sĩ tại Singapore khuyên nên “chấm dứt thai kỳ” vì bệnh tim bẩm sinh của thai quá nặng, không có cơ hội sống. Tuy nhiên với hy vọng tìm kiếm cơ hội cho con, chị và các bác sĩ tại đây đã tìm kiếm thông tin quốc tế về can thiệp tim bào thai và quyết định chuyển chị đến Bệnh viện Từ Dũ – cơ sở đầu tiên tại Đông Nam Á thực hiện được kỹ thuật này.
Ngày 28/5/2025, một ca can thiệp tim bào thai phức tạp đã được thực hiện thành công tại Bệnh viện Từ Dũ với sự phối hợp của Bệnh viện Nhi Đồng 1, mở ra hy vọng sống cho một thai nhi mắc dị tật tim bẩm sinh nặng. Đây là ca khó nhất trong số 9 ca can thiệp tim bào thai tại BV Từ Dũ tính đến thời điểm hiện tại, do nhiều yếu tố bất lợi liên quan đến tuổi thai, giải phẫu tim và tư thế thai nhi.
Ngày 26/5/2025 Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tử cung cho BS Khoa sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận đã được tập huấn về kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tử cung. Đây là chuyến chuyển giao đầu tiên của Bệnh viện Từ Dũ cho các BS khoa Sản của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Với mục tiêu để các Bác sỹ tuyến trước có thể thực hiện được kỹ thuật này, trong chuyến chuyển giao lần này các chuyên gia của Bệnh viện Từ Dũ đã hướng dẫn cho các BS của Khoa sản từ lý thuyết đến thực hành và đã hướng dẫn cầm tay chỉ việc cho các BS Khoa sản của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận.
Chiều 9/5 ghi nhận loạt phiên chuyên đề cuối cùng trước khi Hội nghị bước vào phiên bế mạc tổng kết. Những chủ đề then chốt trong dự phòng – điều trị – đổi mới kỹ thuật tiếp tục được đào sâu tại bốn hội trường chuyên biệt, đánh dấu sự toàn diện trong chuyên môn và chuyên sâu trong thực hành của hội nghị năm nay.
Ngay sau giờ giải lao, các hội trường lại tiếp tục sôi động với loạt phiên thảo luận chuyên sâu, nơi những vấn đề thời sự, thực tiễn và thách thức lớn của ngành sản phụ khoa được mổ xẻ dưới góc nhìn khoa học và kinh nghiệm thực hành.