Sử dụng thuốc OTC trong thời kỳ mang thai
Ds. Đặng Thị Thuận Thảo
Khoa Dược – BV Từ Dũ
Thuốc OTC (Over The Counter) có nghĩa là những thuốc được mua bán mà không cần BS kê toa. Hiện nay, thuốc OTC chiếm khoảng 60% thuốc sử dụng ở Mỹ và có hơn 80% phụ nữ mang thai sử dụng thuốc OTC trong thời kỳ mang thai. Từ năm 1975 đến năm 1994, có 30% thuốc OTC bán trên thị trường trước đó được phân loại là thuốc kê đơn và chỉ có 60% bệnh nhân tham khảo ý kiến của Bác sĩ khi sử dụng thuốc OTC
Có ít nhất 10% khiếm khuyết bào thai được nghĩ là do sự phơi nhiễm thuốc trên người mẹ. Sự phát hiện những khiếm khuyết này khá phức tạp vì mức độ an toàn và hiệu quả của thuốc sử dụng thường thay đổi trong suốt một quá trình mang thai bình thường.
Sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai có nhiều thay đổi dần dần kể từ năm 1970 do vấn đề của thalidomide và diethylstilbestrol. Chính vì vậy, nhiều thử nghiệm được yêu cầu thực hiện trước khi một thuốc được phân loại mức độ an toàn trong thời kỳ mang thai.
Kể từ năm 1975, FDA đã phân loại mức độ an toàn cho hầu hết các thuốc sử dụng tại Mỹ. Do vậy có nhiều thuốc chưa được nghiên cứu đầy đủ trong thời kỳ mang thai do những cân nhắc về đạo đức, điều này có thể nên được xem xét đến trong tương lai.
* Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf
Acetaminophen (paracetamol) đã được sử dụng để hạ sốt và giảm đau từ nhẹ đến trung bình. Thuốc có sẵn ở dạng đơn chất hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị các triệu chứng cảm lạnh, cúm, đau đầu và viêm xương khớp. Tên thương mại phổ biến là Tylenol. Theo Tạp chí Wall Street Journal đưa tin, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ dự định thông tin về mối liên quan giữa chứng tự kỷ và việc phơi nhiễm với thuốc giảm đau và hạ sốt Tylenol trước khi sinh, như sau:
Tiêm chủng cho mẹ giúp bảo vệ cả mẹ và thai nhi khỏi một số bệnh nhiễm trùng. Lý tưởng nhất là tiêm chủng trước khi thụ thai, nhưng trong một số trường hợp, việc tiêm chủng trong thai kỳ cũng được chỉ định.
Nhiều bằng chứng cho thấy rằng, việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân tiên lượng nặng bị suy thận cấp (STC) thường không đạt được mục tiêu dược lực học và tỉ lệ tử vong cao liên quan đến nhiễm trùng. Do đó, bài viết này đánh giá những thay đổi thông số về dược động học và dược lực học trên bệnh nhân nặng có STC và đề xuất những giải pháp để có thể tối ưu liều dùng kháng sinh trên những bệnh nhân này.
Trong bản dự thảo cuối cùng, Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh (NICE) cho biết relugolix-estradiol-norethisterone là một lựa chọn để điều trị các triệu chứng lạc nội mạc tử cung ở những người phụ nữ trưởng thành đang trong độ tuổi sinh sản, nhưng không đáp ứng với phương pháp điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật trước đó.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), có khoảng 10% bệnh nhân tại Mỹ được báo cáo bị dị ứng penicillin. Tuy nhiên, dưới 1% bị dị ứng qua trung gian IgE (loại 1) và các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, khoảng 80% bệnh nhân này sẽ mất độ nhạy cảm sau 10 năm. Hơn nữa, CDC khuyến nghị cần xác định những bệnh nhân không thực sự dị ứng penicillin để giảm việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không cần thiết. Phản ứng chéo giữa penicillin và cephalosporinlà rất hiếm, nhưng nhiều bác sĩ tránh kê đơn cephalosporin cho bệnh nhân bị dị ứng penicillin, dẫn đến tăng cường sử dụng các loại kháng sinh khác như là quinolon, macrolid, clindamycin, carbapenem và vancomycin, thường gặp nhiều tác dụng phụ hơn, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và góp phần vào tình trạng đề kháng kháng sinh
Độc tính trên thận do thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra tổn thương thận cấp tính (AKI) và kháng sinh (KS) là một trong những nhóm thuốc lớn nhất liên quan đến AKI. Cơ chế gây độc tính trên thận do KS bao gồm tổn thương cầu thận, tổn thương hoặc rối loạn chức năng ống thận, tắc nghẽn ống lượn xa do trụ niệu và viêm thận kẽ cấp tính (AIN) do phản ứng quá mẫn loại IV (loại chậm). Các biểu hiện lâm sàng của độc tính trên thận do KS bao gồm hoại tử ống thận cấp (ATN), AIN và hội chứng Fanconi.